Tuổi Lao Động Đối Với Nam

Tuổi Lao Động Đối Với Nam

Sự khác biệt chủ yếu giữa lao động phổ thông và lao động có tay nghề nằm ở mức độ kiến thức chuyên môn.

Sự khác biệt chủ yếu giữa lao động phổ thông và lao động có tay nghề nằm ở mức độ kiến thức chuyên môn.

Các công việc của lao động phổ thông là gì?

Mặc dù không yêu cầu trình độ học vấn cao. Nhưng việc làm lao động phổ thông đem lại cơ hội với nhiều công việc lương cao, ổn định. Giúp người lao động có thu nhập ổn định và có thể tiết kiệm cho tương lai.

Công nhân tại các nhà máy sản xuất thường chiếm số lượng lao động đông đảo nhất. Hầu hết các công ty cung cấp đào tạo trước khi bắt đầu công việc. Không yêu cầu bằng cấp cao.

Để làm việc hiệu quả, người lao động cần có sức khỏe tốt, linh hoạt và chịu áp lực. Đây thường là công việc yêu cầu tăng ca thường xuyên theo nhu cầu sản xuất.

Lao động phổ thông là gì? Lao động phổ thông làm công việc gì? Làm bảo vệ là một trong những công việc phổ biến. Công việc này không đòi hỏi bằng cấp. Chỉ cần người lao động có sức khỏe tốt và kỹ năng tuần tra, canh gác. Để đảm bảo an ninh khu vực. Người làm việc này thường được trang bị đầy đủ đồng phục và trang thiết bị an ninh.

Yêu cầu cho công việc này không tập trung vào bằng cấp, mà tập trung vào tính chăm chỉ, sạch sẽ, khả năng giao tiếp tốt và lòng nhiệt tình với khách hàng.

Mức lương thường được tính theo giờ hoặc theo ca làm việc. Đây là lựa chọn phổ biến đối với nhiều bạn trẻ. Trong quá trình làm việc, họ có thể nâng cao kỹ năng để có khả năng tự mình kinh doanh sau này.

Việc lái xe công nghệ rất phù hợp với những người muốn làm việc tại các thành phố lớn mà không cần phải có bằng cấp cao. Người lao động có thể tự quản lý thời gian làm việc phù hợp với lịch trình cá nhân.

Để làm việc này, chỉ cần có bằng lái xe và điện thoại thông minh để đăng ký tài khoản. Nhờ vào nền tảng của các ứng dụng như Grab, Gojek, Be,… Người lao động có thể tìm kiếm thu nhập ổn định. Có cơ hội hợp tác với các công ty uy tín trong ngành.

Ngành giao hàng là một lựa chọn phổ thông phù hợp đối với nam giới muốn tìm việc tự do mà không yêu cầu bằng cấp. Đặc biệt, với sự bùng nổ của thị trường mua sắm online, nhu cầu tuyển dụng nhân viên giao hàng cũng tăng cao. Công việc này chỉ cần sức khỏe tốt, sẵn sàng di chuyển.

Nhu cầu tuyển dụng người giúp việc nhà đang gia tăng, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Đây là công việc chân tay, không yêu cầu nhiều về trình độ chuyên môn. Thu hút nhiều lao động phổ thông, đặc biệt là phụ nữ. Họ có thể giúp việc trông trẻ, nấu ăn, chăm sóc người già… theo giờ hoặc theo tháng. Tùy thuộc vào nhu cầu, họ có thể làm việc ở đó hoặc về sau giờ làm. Nhiều chủ nhà coi người giúp việc như thành viên trong gia đình và có chính sách đãi ngộ tốt.

Công việc này không đòi hỏi bằng cấp hay kinh nghiệm. Làm lao công, tạp vụ tại các tòa nhà văn phòng không quá gian nan. Mang lại thu nhập ổn định và không cần sức lực lớn. Phù hợp với phụ nữ lao động ở mọi độ tuổi. Họ có thể ký hợp đồng trực tiếp với công ty hoặc thông qua các dịch vụ cung ứng khác.

Yêu cầu về các kỹ năng đối với lao động phổ thông là gì?

Vì thiếu kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn, người lao động thường gặp khó khăn trong quá trình làm việc. Họ cần phải hoàn thành công việc theo tiến độ, sửa lỗi trong quá trình sản xuất và đương đầu với áp lực công việc. Vì vậy, tâm lý vững vàng, khả năng bình tĩnh giải quyết tình huống bất ngờ là rất quan trọng.

Mặc dù công việc phổ thông không phức tạp, nhưng yêu cầu sự chăm chỉ và kiên trì. Điều này giúp người lao động làm quen với công việc. Trở nên thành thạo hơn và hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh chóng và chính xác.

Điều quan trọng nhất với lao động phổ thông chính là sức khỏe. Vì công việc của họ chủ yếu đòi hỏi sức lực. Một số công việc cụ thể có thể đặt ra yêu cầu về cân nặng, chiều cao… Do đó, khi tìm kiếm việc làm phổ thông, có sức khỏe tốt hoặc thực hiện việc rèn luyện thể chất là rất quan trọng. Có giấy chứng nhận sức khỏe là điều bắt buộc khi xin việc. Hãy chuẩn bị sẵn bản khám sức khỏe để bổ sung vào hồ sơ xin việc.

Thái độ làm việc luôn được đánh giá cao, ngay cả khi bạn làm công việc phổ thông. Trong bối cảnh công việc này không yêu cầu nhiều kỹ năng chuyên sâu hay kiến thức đặc biệt, thái độ tích cực và chuyên nghiệp là một điểm cộng lớn trong mắt nhà quản lý

Tâm sự qua công tác tham gia phòng, chống dịch

Trợ cấp thôi việc là khoản trợ cấp mà đơn vị sử dụng lao động phải chi trả cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động. Một số quy định cụ thể như sau:

1. Điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc

Căn cứ khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động muốn hưởng trợ cấp thôi việc sau khi nghỉ việc phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

1.1. Đã làm việc thường xuyên cho người sử dụng lao động từ đủ 12 tháng trở lên trước khi nghỉ việc.

1.2. Chấm dứt hợp đồng lao động bởi một trong các căn cứ sau:

- Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng.

- Thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.

- Người lao động bị phạt tù nhưng không được hưởng án treo/không được trả tự do, tử hình/bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động.

- Người lao động chết; bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích/đã chết;

- Người sử dụng lao động chết; bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích/đã chết.

- Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động/bị thông báo không có người đại diện.

- Người lao động hoặc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp.

2. Trường hợp không được hưởng trợ cấp thôi việc

Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, có 02 trường hợp dù có đủ các điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc nêu trên nhưng không được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp đó là:

2.1. Người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu.

Theo quy định tại Điều 54, Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 được sửa bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động được hưởng lương hưu thường phải có đủ 02 điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và độ tuổi nghỉ hưu theo quy định.

Người lao động làm việc trong điều kiện bình thường phải từ đủ 60 tuổi 03 tháng đối với nam và 55 tuổi 04 tháng đối với nữ khi nghỉ hưu vào năm 2021. Mỗi năm sau đó thì tuổi nghỉ hưu của nam tăng 03 tháng đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028; còn tuổi nghỉ hưu của nữ tăng 04 tháng đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.

Trong một số trường hợp đặc biệt, người lao động còn có thể được nghỉ hưu trước độ tuổi nêu trên từ 05 đến 10 năm, thậm chí là trước rất nhiều năm.Xem thêm: Cách để biết mình nghỉ hưu năm bao nhiều tuổi?

* Về thời gian đóng bảo hiểm xã hội:

Hầu hết mọi trường hợp người lao động đều phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 20 năm trở lên.

Riêng trường hợp lao động nữ làm cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn thì chỉ cần đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm trở lên.

2.2. Người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động do tự ý bỏ việc từ 05 ngày liên tục mà không có lý do chính đáng.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, người lao động hoặc thân nhân người đó bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và trường hợp khác theo nội quy lao động.

Nếu không có các lý do này mà tự ý bỏ việc từ 05 ngày liên tục trở lên, người lao động bị công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động sẽ không được nhận trợ cấp thôi việc.

3.1. Công thức tính trợ cấp thôi việc

Căn cứ Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019, trợ cấp thôi việc được tính theo công thức sau đây:

Tiền trợ cấp thôi việc == 11/2 xx Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc xx Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc

- Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.

- Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc;

3.2. Cách xác định thời gian làm việc tính hưởng trợ cấp

Thời gian làm việc tính hưởng trợ cấp thôi việc được tính như sau:

Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc == Tổng thời gian người lao động đã làm việc -- Thời gian đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp -- Thời gian đã được chỉ trả trợ cấp thôi việc, mất việc làm

Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động:

- Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động theo HĐLĐ;

- Thời gian được người sử dụng lao động cử đi học;

- Thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật BHXH;

- Thời gian nghỉ việc hưởng nguyên lương đối với các trường hợp: nghỉ hằng năm; ngày nghỉ hằng năm tăng theo thâm niên nghề làm việc; nghỉ lễ, tết; nghỉ việc riêng nhưng vẫn hưởng nguyên lương theo quy định của pháp luật;

- Thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn;

- Thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương;

- Thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động;

- Thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội;

Xác định thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp: Thời gian mà người lao động đã đóng BHTN bao gồm 2 khoảng thời gian sau:

- Thời gian NSDLĐ đã đóng BHTN theo quy định của pháp luật;\

- Thời gian NSDLĐ đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của NLĐ một khoản tiền tương đương với mức đóng BHTN theo quy định của pháp luật;

- Những trường hợp bắt đầu đi làm và ký hợp đồng lao động từ 1/1/2009 sẽ không còn được hưởng trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc; chỉ còn được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

- Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc mà lẻ tháng sẽ được làm tròn:

+ Có tháng lẻ ít hoặc bằng 06 tháng: Tính 1/2 năm;

3.3. Cách xác định tiền lương tính hưởng trợ cấp

Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc = Tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi thôi việc.

* Trường hợp làm việc theo nhiều hợp đồng lao động kế tiếp nhau:

- Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc = Tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng trước khi chấm dứt hợp đồng cuối cùng.

- Trường hợp hợp đồng lao động cuối cùng bị vô hiệu do tiền lương:

Tiền lương tính trợ cấp thôi việc do thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng hoặc mức lương ghi trong thỏa ước lao động tập thể.

4. Thủ tục nhận trợ cấp thôi việc

Theo Điều 46 Bộ luật Lao động, việc chi trả trợ cấp thất nghiệp là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Người lao động chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện đã nêu ở trên thì sẽ được trả loại trợ cấp này.

Pháp luật cũng không có yêu cầu gì về thủ tục đối với việc chi trả loại trợ cấp thôi việc. Do đó, doanh nghiệp có thể tự chọn cách thức để trả khoản tiền này cho người lao động mà không cần người lao động phải thực hiện thủ tục gì.

Dù vậy, doanh nghiệp cũng cần đảm bảo về thời hạn thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động 2019.

5. Thời gian được nhận trợ cấp thôi việc

Liên quan đến việc nhận trợ cấp thôi việc sau khi chấm dứt hợp đồng, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2019 nêu rõ: “1. Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp sau đây có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày:

a) Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

b) Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế;

c) Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;

d) Do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm”.

Theo đó, với trường hợp thông thường, người lao động chỉ mất tối đa 14 ngày kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động thì sẽ nhận được trợ cấp thôi việc. Trong một số trường hợp đặc biệt, người lao động có thể phải chờ đến 30 ngày để nhận trợ cấp thôi việc.

Lưu ý: Nếu người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp thôi việc mà công ty lại cố tình không trả thì sẽ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi không trả hoặc không trả đủ trợ cấp thôi việc cho người lao động sẽ bị xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 28/2020/NĐ-CP, mức phạt căn cứ cứ vào số lượng người lao động bị vi phạm:

- Từ 01 - 02 triệu đồng: Nếu có 01 - 10 người lao động bị vi phạm;

- Từ 02 - 05 triệu đồng: Nếu có từ 11 - 50 người lao động bị vi phạm;

- Từ 05 - 10 triệu đồng: Nếu có từ 51 - 100 người lao động bị vi phạm;

- Từ 10 - 15 triệu đồng: Nếu có từ 101 - 300 người lao động bị vi phạm;

- Từ 15 - 20 triệu đồng: Nếu có từ 301 người lao động.

Đồng thời, người sử dụng còn buộc phải trả đủ tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động và tính thêm khoản tiền lãi của số tiền chưa trả theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm bị xử phạt.

Như vậy, không phải trường hợp người lao động nào mất việc, thôi việc cũng được hưởng trợ cấp. Để được hưởng trợ cấp thôi việc, mất việc người lao động cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định và việc hưởng trợ cấp thôi việc cũng cần tuân thủ những quy định bắt buộc về hồ sơ, thủ tục./.

Đài Loan là một trong những điểm đến hàng đầu cho người lao động Việt Nam nhờ vào môi trường làm việc chuyên nghiệp, mức lương hấp dẫn và các cơ hội phát triển nghề nghiệp. Để đảm bảo quyền lợi và điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động nước ngoài, bao gồm người lao động Việt Nam, chính phủ Đài Loan liên tục cập nhật và cải thiện các quy định trong luật lao động. Năm 2024, Đài Loan đã đưa ra một số thay đổi quan trọng trong luật lao động nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động và đảm bảo sự công bằng trong quan hệ lao động. Bài viết này sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện về luật lao động Đài Loan 2024, những điểm mới, và các vấn đề mà người lao động cần chú ý.

Luật lao động Đài Loan được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, bao gồm cả lao động địa phương và lao động nước ngoài. Các quy định trong luật lao động tập trung vào việc đảm bảo quyền lợi về lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, và các quyền lợi khác. Mục tiêu chính của luật lao động là tạo ra một môi trường làm việc an toàn, công bằng và lành mạnh cho tất cả người lao động.

Các thành phần chính của luật lao động Đài Loan:

Năm 2024, Đài Loan đã có một số thay đổi quan trọng trong luật lao động nhằm nâng cao quyền lợi của người lao động và đảm bảo tính công bằng trong môi trường làm việc.

1. Tăng lương tối thiểu: Một trong những thay đổi quan trọng nhất là việc tăng mức lương tối thiểu. Chính phủ Đài Loan đã quyết định nâng mức lương tối thiểu lên để phù hợp với mức sống ngày càng tăng và đảm bảo người lao động có thu nhập đủ để trang trải các chi phí cơ bản. Mức lương tối thiểu mới áp dụng cho cả lao động địa phương và lao động nước ngoài, bao gồm người lao động Việt Nam.

2. Quy định chặt chẽ về giờ làm việc và thời gian nghỉ ngơi: Luật lao động Đài Loan 2024 đưa ra các quy định nghiêm ngặt hơn về giờ làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Các doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt thời gian làm việc tối đa là 8 giờ mỗi ngày và 40 giờ mỗi tuần. Bất kỳ yêu cầu làm thêm giờ nào cũng phải được sự đồng ý của người lao động và phải được trả lương làm thêm giờ theo quy định.

3. Bảo vệ quyền lợi của lao động nữ và lao động có thai: Đài Loan đã tăng cường các quy định bảo vệ quyền lợi của lao động nữ, đặc biệt là lao động có thai và nuôi con nhỏ. Lao động nữ có quyền được nghỉ thai sản ít nhất 8 tuần và được hưởng lương trong thời gian nghỉ thai sản. Ngoài ra, lao động nữ nuôi con nhỏ có quyền yêu cầu điều chỉnh thời gian làm việc để phù hợp với việc chăm sóc con cái.

4. Tăng cường quy định về an toàn lao động: Luật lao động 2024 yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp an toàn lao động chặt chẽ hơn, bao gồm việc cung cấp đầy đủ thiết bị bảo hộ, đào tạo an toàn lao động cho nhân viên, và kiểm tra định kỳ về an toàn tại nơi làm việc. Các vi phạm về an toàn lao động có thể bị phạt nặng và phải bồi thường cho người lao động nếu gây ra tai nạn lao động.

5. Bảo hiểm xã hội và y tế bắt buộc: Chính phủ Đài Loan đã mở rộng phạm vi bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế bắt buộc, đảm bảo mọi người lao động, bao gồm lao động nước ngoài, đều được tham gia các chương trình bảo hiểm này. Điều này giúp người lao động yên tâm làm việc, biết rằng họ được bảo vệ trong trường hợp ốm đau, tai nạn lao động, hoặc khi nghỉ hưu.

Mặc dù luật lao động Đài Loan 2024 mang lại nhiều quyền lợi cho người lao động, nhưng cũng có những thách thức mà người lao động cần chuẩn bị đối mặt.

1. Khó khăn trong việc hiểu rõ quy định pháp luật: Người lao động nước ngoài, bao gồm người Việt Nam, có thể gặp khó khăn trong việc hiểu rõ và tuân thủ các quy định pháp luật Đài Loan do khác biệt ngôn ngữ và văn hóa. Để khắc phục, người lao động nên tham gia các khóa đào tạo về luật lao động và tìm hiểu thông tin từ các tổ chức hỗ trợ lao động nước ngoài.

2. Áp lực công việc và thời gian nghỉ ngơi: Mặc dù luật lao động quy định rõ ràng về giờ làm việc và thời gian nghỉ ngơi, nhưng thực tế một số doanh nghiệp vẫn có thể yêu cầu người lao động làm thêm giờ mà không trả lương hoặc không tuân thủ quy định. Người lao động cần hiểu rõ quyền lợi của mình và không ngần ngại yêu cầu quyền lợi chính đáng.

3. Vấn đề an toàn lao động: Mặc dù luật lao động yêu cầu các biện pháp an toàn, nhưng tai nạn lao động vẫn có thể xảy ra. Người lao động cần tuân thủ quy định an toàn lao động, sử dụng thiết bị bảo hộ đầy đủ và báo cáo ngay những nguy hiểm tiềm ẩn cho quản lý.

4. Rủi ro về quyền lợi bảo hiểm: Việc tham gia bảo hiểm xã hội và y tế là bắt buộc, nhưng đôi khi có thể xảy ra các vấn đề liên quan đến việc đóng bảo hiểm hoặc chi trả quyền lợi. Người lao động cần kiểm tra kỹ hợp đồng lao động và đảm bảo quyền lợi bảo hiểm của mình được thực hiện đầy đủ.

Công Ty Du Học APEC tự hào là một trong những đơn vị hàng đầu tại Việt Nam trong lĩnh vực tư vấn du học và xuất khẩu lao động Đài Loan. Với nhiều năm kinh nghiệm và đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, APEC cam kết mang đến cho bạn những dịch vụ tốt nhất, bảo vệ quyền lợi của bạn trong suốt quá trình làm việc tại Đài Loan.

Chuyên môn và uy tín: APEC không chỉ hỗ trợ người lao động trong việc chuẩn bị hồ sơ và xin visa mà còn cung cấp các khóa học tiếng Trung phồn thể chuyên sâu, giúp bạn tự tin giao tiếp và làm việc hiệu quả tại Đài Loan. Chúng tôi cam kết đảm bảo mọi người lao động đều được hưởng đầy đủ quyền lợi theo luật lao động Đài Loan 2024.

Hỗ trợ toàn diện và bảo vệ quyền lợi: APEC luôn đồng hành cùng người lao động từ khi bắt đầu đến khi kết thúc hành trình lao động tại Đài Loan. Chúng tôi cung cấp sự hỗ trợ toàn diện, từ việc tư vấn pháp lý, giải quyết tranh chấp lao động đến hỗ trợ khi gặp vấn đề về bảo hiểm và an toàn lao động.

Nếu bạn đang tìm kiếm một đối tác tin cậy để hỗ trợ trong việc học tập và làm việc tại Đài Loan, hãy liên hệ ngay với Công Ty Du Học APEC để được tư vấn và hỗ trợ chi tiết.

Địa chỉ: 100 An Trạch, Q. Đống Đa, Tp. Hà Nội

Hotline: 0969 762 488 | 0904 688 834

Website: https://www.apec.edu.vn

APEC sẽ cùng bạn chinh phục những cơ hội mới và đạt được mục tiêu học tập và nghề nghiệp tại Đài Loan. Hãy liên hệ ngay hôm nay để bắt đầu hành trình của bạn!

%PDF-1.5 %���� 1 0 obj >/PageWidthList<0 411.024>>>>>>/Resources<>/ExtGState<>/Font<>/ProcSet[/PDF/Text]>>/Rotate 0/TrimBox[ 0 0 411.024 581.102]/Type/Page>> endobj 2 0 obj <>stream H��W�n�6}��G�i^%8�l�n�$5����Q.vk+7'���_�I��Z^�Ev�!iR�̙9Cw�C�!p�ȔZS� ���E>���:����s�8~hɌH0S_����{r�"G����dz���` N�XS۱�vX�A��a,=T�8�e W�v^���s� `�9�/�g&O~}��������/��-� L��:�E��0�T����I��)e�W��H@u ��R�,�Г�Pa-��r���S>��Y�CX�M(׹�]Q�����x��K�X�P���J6i���UO��׏մ�$�픥��~�?Tί��b�S��jT����R?�VB��E)!.��@��٤>�6�ğVd�9�I,��:��_�V~{�W��-�kIr��$��L��(,��gN�i0�ʒ���25��{̷z��H0ƒ�Oi��DH�?r�l9��܌V87#p��b-SpV=�{Jz.ۯ�G�p�����C�>��\M��J�k"H��"x9�P��8��@q��b�g��D�$��%Gϯ�Ƚ#n4���h���

Cộng đồng kinh tế ASEAN - tiềm năng phát triển Từ năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN 2020 bao gồm ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Năm 2007, một lần nữa các nhà lãnh đạo nhấn mạnh lại cam kết này, đồng thời quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua Kế hoạch hành động AEC và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Theo định hướng, AEC sẽ là một khu vực kinh tế ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế - xã hội giảm bớt. Cộng đồng kinh tế là xu hướng liên kết khu vực hiện nay của các nhóm nước ở nhiều khu vực trên thế giới, như Cộng đồng châu Âu, Cộng đồng các quốc gia độc lập… Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập nhằm tạo dựng một thị trường thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao mà với năng lực cạnh tranh này, ASEAN có thể hội nhập đầy đủ và vững chắc vào nền kinh tế toàn cầu. Cộng đồng Kinh tế ASEAN được kỳ vọng là cộng đồng năng động, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu với GDP bình quân hằng năm ước đạt 2.000 tỷ USD và sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới. Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), kinh tế Việt nam có cơ hội tăng trưởng thêm 14,5% vào năm 2025. Cộng đồng Kinh tế ASEAN bao gồm 10 quốc gia với dân số hơn 620 triệu người, trong đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là In-đô-nê-xi-a (40%), Phi-líp-pin (16%) và Việt Nam (15%). Lực lượng lao động này khi được “giải phóng”, được tự do di chuyển trong thị trường chung sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Trước mắt, trong năm 2015 có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó có nhân lực được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay, lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50% chủ sử dụng lao động trong khối ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng)... Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam có những lợi thế nhất định, nhưng đồng thời có những hạn chế, những thách thức không nhỏ. Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Ma-lai-xi-a đạt 5,59 điểm... Do vậy nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Xin-ga-po gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Ma-lai-xi-a và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh). Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.Giải pháp cho phát triểnTăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào những lợi thế không căn bản (như xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, sử dụng công nghệ lạc hậu, lao động giá rẻ...) là sự tăng trưởng không bền vững. Khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, công nghệ sản xuất lạc hậu và năng lực tài chính không đủ để đổi mới công nghệ và thiết bị, không có sự chuẩn bị tốt về nguồn nhân lực có kỹ năng, tất cả các yếu tố trên sẽ trở thành lực cản lớn cho sự phát triển. Việc sử dụng nhân công giá rẻ với năng suất lao động thấp sẽ dẫn đến tình trạng người lao động không có thời gian để đào tạo lại và nâng cao trình độ để đáp ứng được những đòi hỏi mới của công nghệ hiện đại; khi đó, nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn, thậm chí có thể suy thoái, mất cân đối trầm trọng về các yếu tố đầu vào có chất lượng cho sản xuất. Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) từng khuyến cáo rằng Việt Nam cần dành sự đầu tư lớn hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì đây là yếu tố then chốt đưa Việt Nam vượt khỏi ngưỡng nước có thu nhập trung bình trong những năm tới. Đầu tư mạnh mẽ cho phát triển lực lượng lao động có kỹ năng thông qua nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cùng với cơ chế, chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chính là chìa khóa để Việt Nam vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” thành công và trở thành nước có thu nhập cao trong thời gian sớm hơn dự báo là năm 2058.Để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt Nam, nhất là khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015, cần phải đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, trong đó có đào tạo nghề ở nước ta với một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy nghề trong chiến lược phát triển nhân lực của đất nước thời kỳ 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư đào tạo nghề trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, vùng, ngành. Hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội. Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy nghề, học nghề; sửa Luật Dạy nghề và các quy định liên quan. Có cơ chế để cơ sở dạy nghề là một chủ thể độc lập, tự chủ. Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề; chính sách đối với người đứng đầu cơ sở dạy nghề, người lao động qua đào tạo nghề; chính sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành và đánh giá năng lực người học, hướng tới doanh nghiệp phải là một trong những chủ thể đào tạo nghề. Đổi mới chính sách tài chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho phát triển dạy nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Thứ ba, đổi mới cơ cấu dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chuyển hệ thống dạy nghề khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh hoạt, liên thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông với các bậc học khác. Đổi mới cơ cấu hệ thống dạy nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm ba cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, trên cơ sở sáp nhập trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp; cao đẳng nghề và cao đẳng.Thứ tư, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề, bao gồm phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và quốc tế). Phát triển chương trình đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng mở, linh hoạt, thích hợp với các cấp và trình độ đào tạo nghề; áp dụng một số chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực hiện kiểm định cơ sở dạy nghề và chương trình; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; ban hành các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề cho từng nghề ở từng cấp độ.Thứ năm, đổi mới hoạt động đào tạo; chuyển chương trình dạy nghề từ chủ yếu trang bị kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học; đa dạng hóa nội dung dạy nghề theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học. Các cơ sở dạy nghề tự chịu trách nhiệm về các hoạt động đào tạo từ việc chủ động trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở khung chương trình; xây dựng kế hoạch đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo trên cơ sở có sự tham gia của doanh nghiệp; bảo đảm chất lượng đào tạo; bảo đảm chuẩn hoá “đầu vào”, “đầu ra”; tự kiểm định chất lượng đào tạo và chịu sự đánh giá định kỳ của các cơ quan kiểm định chất lượng của Nhà nước. Đổi mới quản lý quá trình dạy và học, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả dạy nghề trên cơ sở chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, có sự tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động. Thứ sáu, gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa dạy nghề với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng ngành, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thành các đơn vị quan hệ trường - ngành trong các cơ sở dạy nghề. Doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo nghề như xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh mục nghề, xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học nghề… Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các cơ sở dạy nghề về nhu cầu việc làm và các chế độ cho người lao động; phản hồi cho cơ sở dạy nghề về trình độ của người lao động. Các cơ sở dạy nghề tổ chức theo dõi, thu thập thông tin về học sinh học nghề sau khi tốt nghiệp; có trách nhiệm tiếp nhận các thông tin từ phía doanh nghiệp và thay đổi để thích ứng với nhu cầu của doanh nghiệp.Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với những nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới. Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA cho dạy nghề. Hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia vào các hoạt động của khu vực và thế giới để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới.../.

(Phapluatxahoi.vn) Được kỳ vọng là năm sẽ mang tới những bước đột phá cho xuất khẩu lao động Việt Nam, năm 2019 được các chuyên gia đánh giá là thời điểm để người lao động có thêm những cơ hội để tham gia lao động tại nhiều quốc gia trên thế giới khi các chính sách mới được ban hành, cởi mở hơn với lao động nước ngoài.

Theo ước tính, Việt Nam hiện có trên 500 nghìn lao động đang làm việc trong 30 ngành công nghiệp khác nhau ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, bình quân mỗi năm gửi về nước khoảng 2,5 tỷ USD.

Kết thúc năm 2018, ghi nhận kỷ lục là năm thứ năm liên tiếp số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài vượt ngưỡng 100 nghìn lao động/năm. Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, năm 2018, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 142.860 lao động, vượt 30% so với kế hoạch năm. Trong đó, thị trường đứng đầu về lượng tiếp nhận có thể kể đến: Nhật Bản: 68.737 lao động, Đài Loan: 60.369 lao động, Hàn Quốc: 6.538 lao động...

Hiện tại, Nhật Bản vẫn là một trong các thị trường có điều kiện việc làm và thu nhập tốt, được người lao động Việt Nam ưa thích. Tổng số lao động Việt Nam hiện đang làm việc tại Nhật Bản khoảng 120 nghìn người và Việt Nam trở thành nước có số lượng lao động đang làm việc tại Nhật Bản đông nhất trong số 15 quốc gia có người lao động tại đây. Tính đến hết tháng 11/2018, Nhật Bản tiếp nhận hơn 60 nghìn lao động Việt Nam, chiếm gần 50% lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Bước sang năm 2019, số lượng lao động đi làm việc ở Nhật Bản sẽ còn tăng mạnh và nhanh hơn, khi dự luật Quản lý xuất nhập cảnh sửa đổi chính thức được Thượng viện Nhật Bản thông qua vừa qua. Theo đó, Nhật Bản ước tính sẽ tiếp nhận 345 nghìn lao động nước ngoài trong 5 năm tới.

Ông Phạm Viết Hương, Phó Cục Trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH), cho biết, theo nội dung trong Luật, trước mắt, Nhật Bản sẽ tiếp nhận lao động nước ngoài trong 14 ngành nghề: Xây dựng, đóng tàu/công nghiệp tàu thủy, nông nghiệp, hộ lý, lưu trú, sản xuất thực phẩm/đồ uống, nhà hàng, ngư nghiệp, vệ sinh tòa nhà, công nghiệp rèn đúc, công nghiệp điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ô tô và hàng không.

Theo ông Hương, về cơ bản, nguồn nhân lực của Việt Nam đều có thể đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận của phía Nhật Bản theo chính sách mới. Tuy nhiên, để đáp ứng mục tiêu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam sẽ đặt trọng tâm hơn trong việc phái cử người lao động trong các nghề như: Đóng tàu, công nghiệp rèn đúc, công nghiệp điện/điện tử/thông tin, bảo dưỡng/sửa chữa ô tô và hàng không".

Bên cạnh đó, những tin vui về cơ hội việc làm tốt, thu nhập cao trong năm 2019 còn đến từ những bản ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực lao động được ký vào cuối năm 2018. Trong chuyến thăm châu Âu hồi tháng 11/2018, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung đã ký kết biên bản ghi nhớ về hợp tác lao động và an sinh xã hội với hai nước là Bungari và Rumania. Từ hai biên bản ghi nhớ này, lao động Việt Nam sẽ có hàng trăm nghìn cơ hội việc làm tại châu Âu. Đại diện Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB&XH) cho biết, chỉ riêng với thị trường Bulgaria, Việt Nam có thể cung ứng 50.000 lao động ở 6 lĩnh vực: xây dựng, dệt may, nông nghiệp công nghệ cao, điều dưỡng. Do vậy, việc ký kết thỏa thuận giữa Bộ Lao động hai nước mang tính khai mở hợp tác về lao động, bao gồm cả xuất khẩu lao động và đào tạo nghề.

Nhận xét về cơ hội việc làm và nguồn kinh tế mang lại từ việc làm ngoài nước, ông Nguyễn Gia Liêm - Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước khẳng định: Thu nhập từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động đã góp phần cải thiện đời sống cho gia đình của người lao động, giúp nhiều gia đình có cuộc sống ấm no, khá giả hơn. Hơn thế nữa, nhiều lao động Việt Nam sau khi về nước đã trở thành các nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội.

Và đúng như nhận định của nhiều lao động Việt, xuất khẩu lao động còn là cơ hội để tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài về Việt Nam, giúp đội ngũ lao động Việt nâng cao tay nghề, rèn luyện ý thức, tác phong công nghiệp, nâng tầm chất lượng lao động Việt, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng công nghiệp 4.0.

Năm 2019, xuất khẩu lao động tiếp tục được xác định là kênh giải quyết việc làm hiệu quả, không chỉ mang lại lợi ích to lớn về kinh tế, mà còn góp phần đảm bảo an sinh xã hội bền vững. Thế nhưng, để có thể nắm bắt được những cơ hội này thì người lao động phải rèn luyện kỹ năng về ngoại ngữ và kỷ luật lao động.

Lao động phổ thông đóng vai trò quan trọng, liên quan mật thiết đến sự phát triển bền vững của một nền kinh tế. Lao động phổ thông thường được hiểu là người lao động không chuyên môn hóa tuy nhiên lại là lực lượng có sự đóng góp đáng kể cho hệ thống lao động và nền kinh tế nước ta. Để hiểu rõ hơn về lao động phổ thông là gì? Bản chất của lao động phổ thông, cũng như những yêu cầu cần thiết đối với loại hình lao động này, chúng ta cần xem xét không chỉ từ góc độ lý thuyết mà còn từ góc độ thực tiễn của thị trường lao động ngày nay. Và tất cả sẽ được trình bày trong phần nội dung dưới đây.

Lao động phổ thông đề cập đến những người lao động không được đào tạo hoặc kinh nghiệm đặc biệt trong một lĩnh vực cụ thể. Thông thường, họ là những người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn và thị trường việc làm cạnh tranh, những người có bằng cấp vẫn có thể thực hiện các công việc không phù hợp với chuyên môn họ đã được đào tạo.

Công việc của lao động phổ thông thường liên quan đến việc sử dụng tay chân, máy móc… Đặc điểm nổi bật nhất của công việc này là tính rập khuôn và ít sáng tạo. Hợp đồng lao động của nhóm này cũng thường có nhiều điểm khác biệt. Phù hợp với tính chất công việc cũng như trình độ người lao động.